Trường Thực nghiệm GDPT Tây Ninh


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Trợ giáo

Trợ giáo
Thành viên xuất sắc
Thành viên xuất sắc
Nhiều tác phẩm văn học trong sách giáo khoa tiếng Việt hiện nay chưa thực sự khơi gợi hứng thú cho cả thầy và trò.

Một hiện tượng khá phổ biến là thơ ca trong sách giáo khoa thường tiếp cận với học sinh tiểu học bằng lối kể lể trực tiếp hoặc thuyết lý trừu tượng hơn là khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ, đánh thức năng khiếu cảm thụ văn học tiềm ẩn ở trẻ.

Quá dài và khó nhớ

Bài tập đọc Khi mẹ vắng nhà (Tiếng Việt 3, tập 1, trang 15) là một ví dụ. 2/3 nội dung bài thơ là kể việc. Trừ 4 dòng thơ cuối có ngôn ngữ thơ, 8 dòng thơ còn lại nặng tính văn xuôi. Vì thế, bài thơ thoạt nghe thì đơn giản, chỉ từng ấy thời gian, từng ấy công việc, nhưng để thuộc được thật chẳng dễ chút nào. Áp lực của chủ điểm, của động cơ giáo dục khiến đội ngũ biên soạn có phần dễ dãi khi lựa chọn ngữ liệu. Nói thế là bởi Trần Đăng Khoa đã có một bài thơ khá hay về đề tài này (Mẹ ốm, Tiếng Việt 4, tập 1, trang 9), vậy có nên đưa thêm một bài nữa, lại trúc trắc, khó nhớ như thế!

Để học sinh yêu thích môn văn Hoc-mo10
Khơi gợi tính thẩm mỹ qua việc học tiếng Việt ngay từ những lớp đầu tiên của bậc tiểu học
để giúp học sinh yêu môn văn

Sách cũng đưa một số bài khá dài như Chiếc bút mực, Sáng kiến của bé Hà, Bông hoa Niềm Vui (Tiếng Việt 2, tập 1), Ông Mạnh thắng Thần Gió, Quả tim khỉ (Tiếng Việt 2, tập 2), Người mẹ, Hũ bạc của người cha (Tiếng Việt 3, tập 1), Cuộc chạy đua trong rừng (Tiếng Việt 3, tập 2), Bốn anh tài, Ăn “mầm đá” (Tiếng Việt 4, tập 2), Chú đi tuần (Tiếng Việt 5, tập 2)… Với những ngữ liệu này, để đạt được mục tiêu dạy học tiếng (đọc, nghe, nói) trong vòng 35 phút, cả thầy và trò đã khá vất vả rồi, đâu còn điều kiện và hứng thú để tích hợp dạy học văn!

Chú trọng việc giải thích từ ngữ

Việc giải thích sai hoặc không sát nghĩa của từ khiến nội dung, giá trị thẩm mỹ của bài học bị giảm sút không ít. Chẳng hạn sách Tiếng Việt 2, tập 2, trang 61 giải nghĩa các từ “cựa”, “hồng mao” trong bài Sơn Tinh, Thủy Tinh như sau: “Cựa: móng nhọn mọc ở phía sau chân gà trống. Hồng mao: bờm (ngựa)”. Dễ dàng nhận ra nhiều bất ổn ở đây. Móng phải mọc ở đầu ngón chân (của gà) chứ; còn cựa sao có thể là “móng nhọn” được. Còn “hồng mao” trong văn cảnh này được hiểu là lông (của bờm ngựa) có màu đỏ; đấy mới là ngựa quý, ngựa hiếm. Có như thế thì gà, ngựa mới xứng là lễ vật của các thần nhân xin cưới Mỵ Nương - viên ngọc báu của đất Phong Châu. Nếu chỉ là “bờm ngựa” chung chung, trung tính hoặc “móng nhọn” tầm thường như thế thì dẫu “gà chín cựa”, “ngựa chín hồng mao” chăng nữa, chân giá trị của viên ngọc ấy cũng... giảm đi nhiều.

Trong nhận thức của người làm sách và thực tiễn dạy học ở trường tiểu học, việc giải nghĩa từ với cả thầy và trò chỉ là một khâu chiếu lệ, làm cho có chứ chưa thực sự chú trọng đến hoạt động sử dụng chúng trong thực tế cuộc sống. Xét ở phương diện này, có thể thấy, tính chất qua loa, đại khái, thiếu liên hệ mật thiết với thực tế khách quan... dường như là nét chung của cả hệ thống, từ khâu biên soạn, thiết kế nội dung chương trình, sách giáo khoa đến hoạt động thi công, truyền tải, lĩnh hội kiến thức về ngôn ngữ tiếng Việt của cả thầy và trò.

TS Bùi Thanh Truyền (Trường ĐH Sư phạm Huế)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết

 
Để học sinh yêu thích môn văn Flags_1