Trường Thực nghiệm GDPT Tây Ninh


You are not connected. Please login or register

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

muctim

muctim
Thành viên tích cực
Thành viên tích cực
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm học 2017 - 2018 của TPHCM:

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 Van-1m10

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 Van-2m10

BÀI GIẢI GỢI Ý MÔN VĂN

Câu 1 :

a. Những thành tích của Joseph Schooling và Jack Nicholson đã chứng tỏ họ vượt qua thần tượng của mình:

- Tại thế vận hội Mùa hè 2016 ở nội dung 100m bơi bướm, Joseph Schooling đã vượt qua thần tượng Michael Phelps để đoạt lấy Huy chương vàng cho mình.

- Jack Nicholson đã giành được 3 giải Oscar so với thần tượng của mình là Marlon Brando chỉ mới đạt được 2 giải Oscar.

b. Trong văn bản 1, từ nhưng ở câu số 2 là từ thể hiện phép liên kết câu: phép nối.

c. Thông điệp chung của 2 văn bản trên: khi làm bất cứ công việc gì, nếu có đủ ý chí và đam mê, một ngày nào đó ta không chỉ thành công mà còn có thể vượt qua chính thần tượng của mình hôm nay.

d. Mỗi học sinh có những nhận xét khác nhau về cách thể hiện sự hâm mộ của các bạn trẻ ngày nay đối với thần tượng của mình. Đây chỉ là một gợi ý:

- Thần tượng của bạn trẻ ngày hôm nay khá đa dạng. Có thể đó là những người nổi tiếng trong các lãnh vực thể thao, ca nhạc,… Các bạn trẻ đã không nề hà công sức đi theo các thần tượng của mình trong các trận thi đấu hoặc các show diễn. Họ tặng hoa, họ ôm hôn, gào thét để thể hiện sự hâm mộ của mình. Ít người có được tinh thần như Schooling đối với Michael Phelps hoặc Jack Nicholson đối với Marlon Brando lấy thần tượng của mình làm nguồn cảm hứng, tấm gương soi để nỗ lực phấn đấu. Đa số  bạn trẻ ngày nay đã tôn thờ thần tượng một cách quá lố và thiếu tỉnh táo.  

Câu 2:

           Thí sinh cần đáp ứng yêu cầu của câu hỏi: trình bày suy nghĩ của mình được gợi lên từ vấn đề đã nêu trên trong phạm vi khoảng một trang giấy thi. Thí sinh có thể triển khai suy nghĩ của mình theo những cách cụ thể khác nhau. Sau đây là một số gợi ý để tham khảo:

*Yêu cầu chung : Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận xã hội để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

*Yêu cầu cụ thể:

           a- Giới thiệu vấn đề: Để hình thành một lối sống hoàn hảo và đúng đắn là một vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp. “Phải tôn trọng sự khác biệt”, đó là lời khuyên của các nhà tâm lý và giáo dục. Câu hỏi :”Tuổi trẻ có cần sống khác biệt?” Đó là một câu hỏi đơn giản nhưng rất khó trả lời. Sau đây là những ý kiến của em về câu hỏi trên.

           b- Sự khác biệt là bản chất của đời sống đa dạng, phong phú và muôn màu muôn vẻ. Tuy nhiên, bên cạnh sự đa dạng và khác biệt, xã hội con người có rất nhiều điểm chung tốt đẹp cũng như xấu xa. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục cần phải được duy trì và tôn trọng. Bên cạnh đó, chúng ta cần đấu tranh chống lại sự a dua đầy tội lỗi của đám đông.

           c- “Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”. Biết hòa đồng với hoàn cảnh xã hội hiện tại là một kỹ năng cần thiết. “Đồng phục” trong cách sống, trong cách suy nghĩ, trong cách ăn mặc là một nét đẹp thể hiện sự hòa đồng của con người với tập thể. Khi sống hòa đồng với mọi người, tuổi trẻ chắc chắn có được niềm vui, sự đoàn kết, sự chia sẻ và bình yên trong sinh hoạt cũng như làm việc.

           Sống khác biệt chắc chắn không phải là mục đích sống của người trẻ tuổi bởi vì phần lớn họ là những người có khao khát tạo dựng cho mình một sự nghiệp, một cuộc sống vững vàng và hạnh phúc. Sống khác biệt dễ trở nên lập dị, dễ xung đột với tập thể, do đó người khác biệt dễ vấp phải sự chống đối của đa số, dễ trở thành kẻ cô đơn lạc lõng. Chỉ có sống hòa đồng, quân bình hài hòa với mọi người, người trẻ tuổi mới có được hạnh phúc và thành công. Do đó tuổi trẻ không cần phải sống khác biệt, nhất là trong hoàn cảnh bình thường.

           d- Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đặc biệt, cần dám sống khác biệt với số đông bởi vì số đông và tư duy số đông không phải luôn luôn đúng. Có nhiều bằng chứng của lịch sử đã cho thấy điều đó, ví dụ như Galile. Khi đó, dám sống khác biệt chính là sự khẳng định giá trị và nhân cách của một con người. Đôi khi phải có can đảm và sống chết bảo vệ sự khác biệt của mình nếu đó là đúng đắn và tốt đẹp. Khuất Nguyên ngày xưa đã dám một mình trong khi cả đời đục. Tuổi trẻ là tương lai, là vận mệnh của quốc gia, cho nên trong những tình huống thử thách khắc nghiệt của Tổ quốc, họ cần dám sống khác biệt với số đông để dấn thân vào sự hiểm nguy đấu tranh cho sự tồn vong của đất nước, như những chiến sĩ cách mạng Việt Nam trong thời kì trước 1945.

           e- Tuổi trẻ cần phải có nhận thức đúng về sự khác biệt và hòa đồng, cần nhận thấy hòa đồng khác với a dua, về hùa, cũng như khác biệt không phải là lập dị, để từ đó biết sống hòa đồng và can đảm khác biệt khi cần thiết. Phải biết phát huy bản lĩnh của bản thân trong suy nghĩ, cũng như hành động để thể hiện bản chất tốt đẹp của tuổi trẻ là tương lai, là rường cột của nước nhà.

Câu 3:

Đề 1:

Yêu cầu chung: Thí sinh phải biết kết hợp kiến thức và kỹ năng làm bài nghị luận văn học: Cảm nhận về một đoạn thơ trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Sau đó liên hệ với một tác phẩm khác hoặc với thực tế cuộc sống để thấy được tình yêu, sự gắn bó của con người Việt Nam với biển quê hương. Bài viết có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Gợi ý:

Mở bài:

- Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.

- Giới thiệu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và trích dẫn hai khổ thơ được nêu trong đề bài.

Thân bài:

- Phần 1: Cảm nhận về hai khổ thơ trên

+ Giới thiệu vị trí của hai khổ thơ: Khổ đầu và khổ cuối của bài thơ.

+ Cảm nhận về khổ thơ đầu tiên: hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi hoàng hôn với những người ngư dân mang tinh thần phấn khởi lạc quan khi bắt đầu buổi lao động vào một thời khắc đặc biệt. Để làm rõ điều này, học sinh cần chú ý phân tích những yếu tố nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ được dùng trong khổ thơ (mặt trời xuống biển như hòn lửa, sóng cài then, đêm sập cửa, đoàn thuyền đánh cá, lại, câu hát, căng buồm cùng gió khơi).

+ Cảm nhận về khổ thơ cuối cùng: hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh với khung cảnh rực rỡ của biển cả và tinh thần phấn khởi lạc quan của người ngư dân. Để làm rõ điều này, học sinh cần chú ý phân tích các hình ảnh, biện pháp nghệ thuật (điệp, ẩn dụ : câu hát căng buồm, đoàn thuyền chạy đua, mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi).

+ Nhận xét chung: hai khổ thơ có những hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng, thể hiện được hình ảnh đoàn thuyền đánh cá và người ngư dân Việt Nam với tinh thần lao động hăng say trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Phần 2: Học sinh có thể liên hệ với thực tế cuộc sống hoặc với một tác phẩm khác đã được học trong chương trình (ví dụ: Quê hương của Tế Hanh, Cô Tô của Nguyễn Tuân,…)

- Học sinh dù chọn tư liệu nào cũng cần phân tích để chỉ ra được tình yêu và sự gắn bó của con người Việt Nam với biển quê hương.

- Sau đó, cần nhấn mạnh dù ở những phạm vi khác nhau (văn học hay cuộc sống), tác phẩm khác nhau nhưng mọi người đều có thể thấy được tình yêu và sự gắn bó của con người Việt Nam đối với biển cả Việt Nam, một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc mà ông cha đã dày công để xây dựng và đòi hỏi cháu con phải bảo vệ.

Kết bài: Tình yêu quê hương nói chung và tình yêu biển đảo nói riêng là phẩm chất tốt đẹp và thiêng liêng của cả loài người không riêng gì đối với con người Việt Nam.


Đề 2:

Yêu cầu chung: Thí sinh phải biết kết hợp kiến thức và kỹ năng làm bài nghị luận văn học: phân tích một số tác phẩm văn học tự chọn để nói lên những trải nghiệm, những thu hoạch mà bản thân học sinh có được khi đọc tác phẩm văn học với tinh thần “Đọc một tác phẩm – đi một dặm đường”. Bài viết có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Gợi ý:

Mở bài: “Học, học nữa, học mãi” là một câu nói khẳng định rằng việc học là cần thiết cho mọi cuộc đời và mọi thế hệ. Việc học của tuổi trẻ thường có được từ sách vở. Đọc sách là một cách học chủ yếu của học sinh. Đặc biệt, những tác phẩm văn học góp phần làm giàu kiến thức, nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách cho tuổi trẻ. Chính vì thế “Đọc một tác phẩm – đi một dặm đường”.

Thân bài:

- Giải thích “Đọc một tác phẩm – đi một dặm đường”: Đọc và sống với một tác phẩm văn học, người đọc sẽ tiếp thu được nhiều điều quý báu từ kinh nghiệm, kiến thức, tư tưởng, cảm xúc của tác giả, … giống như “đi một ngày đàng học một sàng khôn”.

- Phân tích chứng minh những bài học, trải nghiệm mà học sinh có được từ việc đọc các tác phẩm văn học về các mặt như kiến thức, tư tưởng, kinh nghiệm, cách mô tả và diễn đạt những vấn đề trong cuộc sống, tâm lý nhân vật, miêu tả phong cảnh…

           Phần này mỗi học sinh sẽ có những trình bày cụ thể riêng. Học sinh có thể trình bày những trải nghiệm riêng của mình khi nhập vai với những nhân vật trong tác phẩm. Chỉ cần những điều được nêu phù hợp, đúng với tác phẩm được đề cập.

- Học sinh có thể bàn luận thêm về cách đọc tác phẩm văn học để có được kết quả tốt nhất (lựa chọn tác phẩm phù hợp với lứa tuổi, với mơ ước, với lý tưởng; đọc với tinh thần tập trung, sống với thế giới nghệ thuật của tác phẩm).

- Bên cạnh những tác phẩm văn học trong nhà trường, nên chọn lựa thêm những tác giả không có trong chương trình văn học để bổ sung kiến thức, làm giàu tư tưởng của bản thân.

- Việc đọc sách rất quan trọng cho việc hình thành nhân cách của thế hệ trẻ, do đó đòi hỏi trách nhiệm của những người chọn lựa việc đưa tác phẩm văn học vào sách giáo khoa cần phải thận trọng hơn.

Kết bài: Mỗi tác phẩm văn học đều có những giá trị riêng về nội dung và nghệ thuật mang lại cho người đọc những trải nghiệm, những thông điệp, những lắng đọng, những suy nghĩ, những trăn trở,… Do đó, người đọc cần có thái độ nghiêm túc và chủ động để việc “đọc một tác phẩm” thật sự là “đi một dặm đường” trong hành trình tư tưởng và hình thành tính cách.

Nguyễn Đức Hùng (Trung tâm luyện thi Vĩnh Viễn - TP.HCM)

muctim

muctim
Thành viên tích cực
Thành viên tích cực
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm học 2017 - 2018 của Đà Nẵng:

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 Van-th10

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 Dap-an10

Nguồn: Tuyển sinh 247

muctim

muctim
Thành viên tích cực
Thành viên tích cực
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm học 2017 - 2018 của Trường THPT Chuyên Lam Sơn (Thanh Hóa):

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 20170610

Nguồn: VietNamNet

muctim

muctim
Thành viên tích cực
Thành viên tích cực
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm học 2017 - 2018 của Trường Phổ thông Năng khiếu (ĐH Quốc gia TP.HCM):

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 20170611
Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 20170612Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 20170613

Nguồn: VietNamNet

muctim

muctim
Thành viên tích cực
Thành viên tích cực
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm học 2017 - 2018 của Trường THPT Chuyên Hà Tĩnh:

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 20170614

Nguồn: VietNamNet

muctim

muctim
Thành viên tích cực
Thành viên tích cực
Đề thi và gợi ý giải đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm học 2017 - 2018 của Hà Nội:

Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 De-thi10

Phần I: (4 điểm)

Câu 1: 7 câu thơ tiếp theo những dòng thơ trên là:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Câu 2: Cách miêu tả bước chân con “chạm tiếng nói”, “tới tiếng cười” có sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và cấu trúc đối xứng tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt…. giúp chúng rất dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận.

Câu 3: * Hình thức: Đoạn văn nghị luận đúng quy định về độ dài, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc.
* Nội dung: Đảm bảo các ý cơ bản sau - Giải thích câu nói: “ Được sống trong tình thương là hạnh phúc của mỗi con người”.

+ Tình thương: là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người, với vật (Từ điển tiếng Việt)

+ Hạnh phúc: là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. (Từ điển tiếng Việt) - Bàn luận

+ Tại sao được sống trong tình thương là hạnh phúc của mỗi con người? Tình thương khiến cho người ta luôn hướng về nhau để chia sẻ, thông cảm, đùm bọc lẫn nhau.

+ Biểu hiện, ý nghĩa của tình thương: Trong phạm vi gia đình: Cha mẹ yêu thương con cái, chấp nhận bao vất vả, cực nhọc, hi sinh bản thân để nuôi dạy con cái nên người. Con cái biết nghe lời dạy bảo của cha mẹ, biết đem lại niềm vui cho cha mẹ, đó là hiếu thảo, là tình thương và hạnh phúc. Tình thương yêu, sự hòa thuận giữa anh em, giữa cha mẹ và con cái tạo nên sự bền vững của hạnh phúc gia đình…

Trong phạm vi xã hội: Tình thương là truyền thống đạo lí “Thương người như thể thương thân” tạo nên sự gắn bó chặt chẽ trong quan hệ cộng đồng giai cấp, dân tộc.

- Phê phán, bác bỏ: Lối sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình thương, không biết quan tâm, chia sẻ, đồng cảm và giúp đỡ người khác…

- Liên hệ bản thân: Rút ra bài học về phương châm sống xứng đáng là con người có đạo đức, có nhân cách và hành động vì tình thương.

Phần II: (6 điểm)

Câu 1: Đoạn văn trên được trịch từ truyện “Làng” của nhà văn Kim Lân. Truyện được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.Câu 2: Dòng cảm xúc, suy nghĩ cả ông lão được thể hiện qua việc nhắc lại các từ, cụm từ: nghĩ ngợi vẩn vơ, nghĩ, lại nghĩ, lại muốn, nhớ… Trong dòng cảm xúc suy nghĩ ấy có những kỉ niệm về những ngày ông tham gia đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá, đào hầm…phục vụ kháng chiến

Câu 3: Xét về mục đích nói, câu văn “Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa?” thuộc kiểu câu nghi vấn. Nỗi trăn trở của ông lão trong câu văn đó là một biểu hiện của tình cảm công dân vì ông không chỉ trực tiếp tham gia mà còn luôn quan tâm, lo lắng đến cuộc kháng chiến để bảo vệ làng, bảo vệ quê hương của mình.

Câu 4:

- Hình thức: Viết đúng đoạn văn quy nạp có sử dụng câu ghép và phép thế, đảm bảo độ dài.

+ Diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, các câ văn có liên kết với nhau.

- Nội dung: Làm rõ được chủ đề của đoạn: Truyện đã khắc họa thành công hình ảnh những người nông dân trong kháng chiến.

Cần đảm bảo một số ý sau:

+ Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân và nhân vật ông Hai

+ Phân tích diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc và khi tin đồn được cải chính.

+ Từ đó, đi đến nhận xét khái quát: Truyện “Làng” là truyện về những làng quê nước ta trong những ngày đầu chống Pháp. Và ông Hai sẽ trở thành nhân vật tượng trưng cho lớp người nông dân yêu làng, muốn ở lại làng chiến đấu nhưng theo chính sách phải đi tản cư (tản cư cũng là kháng chiến), vẫn luôn hướng về làng, vui buồn cùng diễn biến của làng mình, ủng hộ kháng chiến, trung thành với cách mạng. Điều đó góp phần làm rõ thêm chủ đề của truyện: Người nông dân nước ta yêu tha thiết, gắn bó sâu nặng với làng quê mình và gắn liền với tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước, tinh thần ủng hộ kháng chiến, trung thành với cách mạng, với cụ Hồ.

Thạc sĩ Hà Thị Thu Phương, giáo viên THCS-THPT Trần Quốc Tuấn (Mỹ Đình, Hà Nội)

Sponsored content


Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết

 
Đề và đáp án thi vào lớp 10 môn Ngữ văn các tỉnh, thành năm học 2017 - 2018 Flags_1